Điều đó đồng nghĩa với việc bạn phải biết mọi vấn đề mà nhân loại nói chung đồng tình. Từ này có gốc từ tiếng Hy Lạp nghĩa là ý kiến đúng. Nói cách khác, nếu các nghĩa có liên quan với nhau thì ta có thể dùng một từ để biểu đạt tất cả, hoặc biểu đạt một số nghĩa, hay chỉ một nghĩa duy nhất.
Vậy là bạn đã đọc lướt qua cuốn sách một cách có hệ thống, theo cách đọc kiểm soát đầu tiên. Chúng tôi xin tóm tắt lại hai gợi ý về cách đọc sách lịch sử như sau. Trong trường hợp này, đa số sẽ thắng.
Hiểu biết của bạn rộng hơn, bạn đã thay đổi nhưng cuốn sách thì không. Vì thế, điều cần thiết ở đây là một cuốn sách tham khảo chỉ cho bạn biết những phần liên quan đến các vấn đề bạn quan tâm nằm ở đâu mà không nhắc bạn phải đọc những phần đó thế nào, tức là không đánh giá trước ý nghĩa hoặc ý chính của những đoạn đó. Bạn phải nhớ đặt chúng trong khi đọc.
Nhưng sức mạnh khiến ta tiếp tục hành động từ những kích thích ấy lại rất hạn chế. Những trang này nên được dành để ghi lại những suy nghĩ của bạn. Đọc một cuốn sách khoa học, chúng ta thường chú ý tới những phát hiện nhờ kết luận thuộc một số lĩnh vực được nghiên cứu thử nghiệm trong phòng thí nghiệm hoặc nhờ cách quan sát bản chất hiện tượng.
Lời giới thiệu của nhiều cuốn sách do chính tác giả viết, và thường thì họ cố gắng tóm lược chính xác các ý chính trong sách của mình. Đó là ta không thể biết chắc về những điều đang diễn ra cũng như ta hoàn toàn mù mờ về những điều đã xảy ra trong quá khứ. Mặc dù các triết gia cũng như các nhà khoa học có một kho thuật ngữ chuyên môn, nhưng các từ ngữ thể hiện ý tưởng của họ thường được lấy từ những câu nói thường ngày nhưng được dùng theo nghĩa đặc biệt.
Đồng thời, người nghe còn có trách nhiệm rút ra một quan điểm để nó trở thành quan điểm của bản thân chứ không còn là của tác giả nữa. Sự phân tích đầy đủ các ý kiến bàn luận xung quanh một vấn đề sẽ cho ta biết những vấn đề chính hoặc những luồng quan điểm cơ bản đối lập nhau. Lịch sử không phổ quát được như vậy.
Sự trùng hợp như vậy thường sẽ rất bất lợi, vì nếu ta dùng một hoặc một loạt từ của một tác giả, ta rất dễ tiếp tục dùng các từ khác của tác giả ấy. Nhiều người cho rằng việc suy nghĩ liên quan nhiều đến học bằng khám phá không có sự trợ giúp hơn là học có hướng dẫn. Các nhà triết học khác như Cicero và Berkeley cũng đã cố gắng dùng đối thoại nhưng không mấy thành công.
Những câu như vậy rất khó phân tích. Giả sử nếu ông sử dụng từ reading theo một nghĩa khác ở một phần khác trong cuốn sách - chẳng hạn trong cụm từ reading nature (bản chất của việc đọc) thì độc giả vẫn dễ dàng nhận thấy sự chuyển đổi sắc thái ý nghĩa của từ reading. Giả sử một nhà khoa học cũng băn khoăn với câu hỏi về kiểu sống của con người.
Cũng có một thực tế là nhiều người đọc quá chậm trong khi đáng lẽ ra họ nên đọc nhanh hơn. Tên sách, tiêu đề mỗi chương và lời đề từ cũng phần nào giúp ích cho việc phân loại đó. Chỉ khi nào bạn không đồng tình hoặc không thể đưa ngay ra lời đánh giá phê bình, chúng ta mới cần triển khai một số bước tiếp theo.
Không khó để nêu lên hay để hiểu những câu hỏi này, nhưng để trả lời chúng thì rất khó. Đánh giá cao ở đây có nghĩa là bạn đã trải qua những gì mà tác giả đã tác động lên cảm xúc và trí tưởng tượng của bạn. Tuy nhiên, để đọc tốt những cuốn sách hay, bạn phải tìm ra ý đồ được thể hiện trong đó.