Khi chúng ta để cho nỗi ám ảnh về an ninh và an toàn lấn át mình, chúng ta đã đánh mất óc phiêu lưu. «Anh ta là người có cá tính» chẳng hạn – là một lời tuyên bố về việc một người có vẻ thân thiện và vui vẻ. Sự căng thẳng giữa sự đơn giản và những nỗ lực tự nó thể hiện trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.
Thay cho việc bộc lộ nỗi sợ và lòng thông cảm thì những người tự sát thường tạo nên xung quanh họ một nỗi sợ đối với người xung quanh (trong đó có cả các bác sĩ tâm lý), tôi nghĩ là hợp lý khi buộc họ phải đương đầu với sự ích kỷ và cơn giận dữ thường đi kèm với bất kỳ một hành động tự sát nào. «Tất cả những người đàn ông tốt đều có vợ cả rồi» hay «Ôi sao phụ nữ mang theo nhiều thứ thế nhỉ?» là những lời tự biện hộ mà tôi thường nghe thấy. Họ luôn phiền lòng và hay đãng trí, thường thì họ ước chết quách cho rảnh nợ.
Sự đóng góp chủ yếu của Freud với tâm lý học chính là lý thuyết của ông về trí tuệ vô thức, hoạt động bên dưới sự nhận thức có kiểm soát của chúng ta và ảnh hưởng đến hành vi của chúng ta. Và trên hết, tôi rất biết ơn khi một lần nữa có dịp nhắc lại những lời của con trai Gordon Livingston nói với cha mình khi cậu bé sáu tuổi đang hấp hối nơi giường bệnh (những phép lạ của y học đã không xảy ra mặc dù cha con cậu xứng đáng được hưởng): «Cha ơi, con rất yêu giọng nói của cha». Rõ ràng rằng cha mẹ hành hạ, đối xử không tốt với con cái về mặt thể xác, tâm hồn, hay giới tính, có thể gây nên những vết thương dai dẳng và nghiêm trọng.
Giống như tất cả những ai đã từng phải đau đớn mất mát, tôi học cách để căm ghét thực sự từ «khép lại», với hành động đó, tôi tìm thấy một sự thật rằng sự đau thương là một tiến trình hữu hạn mà chúng ta có thể hồi phục từ đó. Những người phụ trách điểm vui chơi xin lỗi tôi và tặng tôi những chiếc vé lên thang chơi miễn phí và thế là xong. Nó là mục đích của tất cả những cuộc đối thoại tâm lý học để chữa bệnh.
Đôi khi, không có gì đáng ngạc nhiên khi sự giao tiếp giữa chính các bậc cha mẹ cũng đạt được cùng một con số. Cháu từng là một sinh viên tuyệt vời, là chủ tịch hội sinh viên trường cháu và đã từng được bầu vào hội đồng hội sinh viên khi còn là sinh viên năm thứ hai tại nơi mà cháu bắt đầu nhận thấy những triệu chứng đầu tiên của căn bệnh quái ác. Họ khó nhớ ra nổi điều gì có thể làm cho họ hạnh phúc.
Chỉ có sự hy vọng cuối cùng này mới khiến cho tôi có thể chịu đựng được cơn đau của chính mình và tiếp tục sống. Sự chẩn đoán của bác sĩ tâm thần nói chung chỉ có tính mô tả. Giấy khai sinh của tôi, trong đó viết rằng tôi là con của họ, do đó rõ ràng là một lời nói dối.
Với thời gian, bản chất của những ý nghĩ này thay đổi, từ những hình ảnh về sự ốm đau. Một vài lỗi lầm có những hậu quả lâu dài hơn những lỗi khác, một số ít không thể nào sửa chữa được. Mặc dù đường thẳng có vẻ là con đường ngắn nhất giữa hai điểm, cuộc sống lại không phải là một lược đồ toán học.
Những mối quan hệ của chúng ta với nhau bị sự không tin cậy bóp méo. Điều này nghe có vẻ dễ nhưng tôi đã thấy nhiều người không biết cách nối kết một mối quan hệ giữa hành vi và cảm xúc. Tên của bài ca đó là Nguồn cội đau thương.
Bernoulli là người hoàn toàn đúng. Sự chữa trị đúng mức chứng tuyệt vọng đối với người già thường bị người ta từ chối. Tôi trách nền y học hiện đại và ngành công nghiệp quảng cáo về vấn đề này.
sự trầm cảm và những căn bệnh thần kinh khác đã tạo ra một sự mong đợi về phần của những người đang phải chịu đựng những triệu chứng này rằng việc uống một viên thuốc có thể có hiệu quả với mọi đau đớn và rắc rối của họ. Ở trường đại học của con tôi, người ta dành một phần trong bài viết khoá luận của sinh viên cho những bức ảnh khi còn là trẻ con của những ai đã tốt nghiệp với một vài lời bình luận ngắn gọn từ các bậc cha mẹ. Tại sao chúng ta lại ở đây? Tại sao chúng ta lựa chọn cuộc sống như thế này? Tại sao lại phải quan tâm? Câu trả lời tuyệt vọng được chứa đựng trong một cái phanh hãm rất phổ biến là «Gì cũng được».