Bạn nhận biết được tầm quan trọng của những từ này vì chúng xuất hiện trong các tiên đề. Với một cuốn tiểu thuyết, ta chỉ có thể biết câu chuyện đó là có thật trong thế giới của các nhân vật và sự kiện mà người viết đã tạo ra và tái tạo lại trong mỗi chúng ta. Điều này giải thích tại sao quy tắc 5 của phương pháp đọc phân tích liên quan đến từ vựng và thuật ngữ, trong khi quy tắc 6 mà chúng tôi sắp đề cập lại liên quan đến câu và mệnh đề.
Không có gì đáng ngạc nhiên nếu bạn đọc một cuốn sách nhằm nâng cao nhận thức mà bạn không thể hiểu hết các từ trong sách. Hãy coi việc đọc một cuốn sách là cuộc đối thoại giữa bạn và tác giả. Ví dụ, tiêu đề sách lịch sử luôn có những nét đặc trưng như có từ lịch sử xuất hiện, nếu không thì những từ còn lại thường báo cho độc giả biết cuốn sách này viết về chuyện đã xảy ra.
Do đó, nếu bạn phát hiện ra những chuỗi câu có điểm bắt đầu và điểm kết thúc, có thể bạn đã chạm đến những câu quan trọng. Lịch sử của một từ có chứa các thông tin về quá trình biến đổi vật chất, cách viết và cách phát âm; nêu lên các nghĩa chuyển; phân biệt nghĩa cổ; ít hoặc không sử dụng nữa với nghĩa hiện đại, thông dụng; phân biệt thành ngữ, từ thông tục hoặc tiếng lóng. Chúng tôi đã nói rõ rằng đọc phân tích là phương pháp bạn có thể áp dụng với bất cứ thứ gì bạn đọc, không nhất thiết phải là sách vở.
Chúng tôi cũng đồng ý rằng rất khó để chuyển ngôn từ của người này sang ngôn từ của người khác nhưng cũng không phải là không thể làm được. Hơn nữa, không phải cứ tương ứng với một câu trần thuật là một nhận định được nêu ra. Sau khi tìm ra các thuật ngữ và nhận định, độc giả phải phân tích các lý lẽ đi cùng.
Do những giới hạn của yếu tố thời đại và sự thừa nhận sai lầm của ông về chế độ nô lệ, Aristotle đã không xem xét, thậm chí không hề có ý tưởng về nền hiến pháp dân chủ thật sự được xây dựng trên chế độ bỏ phiểu phổ thông. Quá trình đọc phân tích đã xong và bạn đã hiểu, đã bị thuyết phục. Ví dụ: Tổng thống Abraham Lincoln sinh ngày 12 tháng 2 năm 1809 hoặc số nguyên tử của vàng là 79.
Từ tên sách trên, bạn có thể đoán rằng Collier sẽ đưa ra nhiều ví dụ về sự lạm dụng trắng trợn các quy tắc đạo đức trên sân khấu Anh, và ông sẽ ủng hộ sự phản kháng của mình bằng việc trích dẫn câu chữ của các bậc tiền bối (như Platon) - những người đã từng lên tiếng tranh luận rằng sân khấu chỉ làm suy đồi giới trẻ, hay các vị cha xứ thường nói rằng các vở kịch là sự cám dỗ xác thịt và tội lỗi. Nhận định chính là câu trả lời cho những câu hỏi. Chúng phải là giả thuyết hoặc kết luận.
Ví dụ, khi đọc một tác phẩm về kinh tế, tiêu biểu như cuốn The Wealth of Nations (Sự thịnh vượng của các quốc gia) của Adam Smith, nếu bạn cứ nhất quyết phải hiểu tất cả những gì đọc được trong mỗi trang rồi mới đọc trang tiếp theo, thì bạn sẽ không đọc lâu được. Chúng tôi sẽ quay lại loại ghi chú này ở Chương 20. Nếu câu hỏi mang tính lịch sử, bạn biết bạn cũng phải tiến hành nghiên cứu dù theo một cách khác.
Khi tất cả tác giả chỉ đưa ra hai câu trả lời, vấn đề trở nên đơn giản. Cơ thể có những giới hạn mà tâm trí không có. Cuốn sách này bao gồm rất nhiều định lý, phần dựng hình và các định đề.
Nếu bạn có thói quen đặt câu hỏi khi đang đọc sách thì bạn là một độc giả giỏi hơn những người không biết đặt câu hỏi. Nói như trên không có nghĩa bạn nên bỏ qua tiêu đề chương và sự phân đoạn của tác giả, mà hãy sử dụng chúng như những định hướng cho hoạt động của riêng bạn. Trong giai đoạn này, trẻ có nhiều mục đích học đọc khác nhau, và đọc nhiều nội dung khác nhau như khoa học, nghiên cứu xã hội, ngôn ngữ, nghệ thuật… Trẻ học được rằng việc đọc không chỉ là điều phải thực hiện ở trường, mà còn là việc người ta có thể tự làm để thoả mãn trí tò mò, hay để mở rộng tầm hiểu biết.
Nói cách khác, phương pháp đọc sách triết học cũng giống phương pháp viết sách triết học. Chỉ nên dùng từ điển khi bạn gặp phải thuật ngữ hoặc các từ hoàn toàn mới. Bằng phép tương đồng, ta có thể tìm ra tập hợp các quy tắc giống nhau hướng dẫn việc đọc thơ, tiểu thuyết và kịch.